Cây bút lông của Nhật

Lễ hội là dịp để mọi người bày tỏ ước vọng và cầu may mắn. Người Nhật sử dụng bút lông để viết chữ. Văn hóa này đã ăn sâu vào đời sống của họ trong nhiều thế kỉ qua.

 

 

 Trong tiếng Nhật, nghệ thuật viết chữ đẹp được gọi là “Sho-do”, nghĩa là Thư đạo. Nó khởi nguồn tại Trung Quốc từ thời cổ đại. Khác với nghệ thuật viết chữ của Trung Quốc và Hàn Quốc, Thư đạo Nhật Bản trọng ý hơn trọng hình.

 Bút lông là một trong những vật dụng không thể thiếu dùng để viết chữ trong Thư đạo.

 
 

Bút lông là vật dụng rất đơn giản với thành phần cấu tạo gồm ngòi bút và cán bút. Ngòi bút có nhiều hình dáng, thường được làm từ lông động vật hoặc những loại sợi mềm nhưng được sử dụng nhiều nhất là lông động vật. Trong đó, lông hươu và lông cáo từ xưa đã được những người thợ làm bút lông ở Nhật ưa chuộng. Ngoài lông động vật, nguyên liệu làm ngòi bút cũng có nguồn gốc từ thực vật như rơm, tre nứa hoặc bả mía. Dựa vào sự khác nhau của nguyên liệu làm ngòi bút và cán bút, người Nhật chia bút lông ra làm 300 loại. Trong hội họa, người ta dùng bút lông cứng để vẽ đường nét, bút lông mềm dùng để tô màu.

altChữ viết trong Thư đạo không chỉ chứa đựng ý nghĩa tốt đẹp mà còn thể hiện tinh hoa trong từng nét bút. Nhiều thế hệ người Nhật đã cống hiến hết mình cho môn nghệ thuật truyền thống thanh nhã này.

 

Trong thành phần cấu tạo của ngòi bút, phần lông sinh mệnh được làm từ lông dê cao cấp.

Bút lông là một trong số 4 vật dụng trong Văn phòng Tứ Bửu của người xưa, bên cạnh giấy, mực và nghiên. Theo nhận định của giới nghiên cứu, bút lông ra đời tại Trung Quốc cách nay trên 3.000 năm. Bút lông được sử dụng chủ yếu để viết chữ và vẽ tranh. Chữ Hán được du nhập vào Nhật Bản khoảng thế kỉ thứ VI cùng với quá trình truyền bá của đạo Phật. Người Nhật gọi chữ vay mượn từ Trung Quốc là “Kan-ji”, nghĩa là Hán tự. Đây cũng là giai đoạn văn hóa viết chữ đẹp ra đời tại Nhật.

alt Thời Hei-an được xem là thời điểm của cuộc cách mạng viết chữ bằng bút lông. Lúc bấy giờ, người Nhật đã đơn giản hóa chữ Hán của người Trung Quốc để tạo ra chữ viết riêng của họ gọi là Kana. So với Hán tự vay mượn từ Trung Quốc thì chữ Kana của Nhật Bản được viết bằng những nét đơn giản hơn rất nhiều. Khi viết chữ Kana, người viết có thể kéo thành những nét dài nên trông chúng rất mềm mại và bay bổng.

 

Chữ Kana đã chi phối toàn bộ thế giới văn học của Nhật Bản lúc bấy giờ. Giới quí tộc cung đình sử dụng chữ viết Kana để sáng tác thơ Waka và nhiều thể loại thơ ca khác. Đặc biệt, Kana còn là chữ viết rất được các tác giả văn học nữ thuộc tầng lớp quí tộc Nhật Bản ưa chuộng. Điển hình là nữ tác giả Mu-ra-sa-ki Shi-ki-bu. Nữ sĩ cung đình này là tác giả của “Truyện kể Gen-ji”, một trường thiên tiểu thuyết cổ của Nhật Bản ra đời vào đầu thế kỉ XI. Tác phẩm gồm 54 chương, được viết hoàn toàn bằng chữ Kana. Truyện kể Gen-ji được đánh giá là tuyệt tác hiếm có của văn học nhân loại giai đoạn tiền Phục hưng.